Cách hạn chế hẹp bao quy đầu

Dương Thu Nga (Hải Phòng)

Những năm đầu đời của trẻ, dương vật của bé bắt đầu có sự bài tiết và bong ra các tế bào chết của thượng bì da bao quy đầu. Các tế bào này tích tụ lại tạo thành chất màu trắng nằm ngay ở da bao quy đầu. Nếu trẻ không bị hẹp quy đầu thì chất màu trắng này sẽ bị trôi đi qua các lần tắm, rửa. Nếu quy đầu bị hẹp thì chất cặn này càng ngày càng tích tụ lại, cô đọng lại thành hạt, mảng trắng sờ vào như hạt đậu hoặc vòng nhẫn cứng ở đầu dương vật và rất dễ gây viêm nhiễm bao quy đầu. Hẹp bao quy đầu ở trẻ nhỏ nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời thì đến tuổi vị thành niên dương vật sẽ bé và ngắn hơn bình thường, gây các yếu tố tâm lý không tốt và có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản sau này. Để phòng tránh chứng hẹp bao quy đầu cho trẻ, cha mẹ cần quan tâm lưu ý từ khi bé vài ba tháng tuổi. Bạn có thể phát hiện bằng cách vạch da quy đầu của bé xem lỗ tiểu có hẹp không hoặc quan sát lúc đi tiểu xem tia nước tiểu ra sao. Lưu ý nếu tia nước tiểu nhỏ như cái kim, bé khó tiểu (có bé phải rặn tiểu), thậm chí da phần quy đầu phồng lên do nước và chất cặn bã tích lại thì bé đã bị hẹp bao quy đầu. Cần vệ sinh bao quy đầu hàng ngày cho trẻ mỗi khi tắm, rửa. Cần lộn bao quy đầu ra và dùng vòi nước sạch cho chảy nhẹ nhàng vào rãnh quy đầu, cho đến khi thấy các chất cặn bẩn có màu trắng đã sạch hết thì cho bao quy đầu trở về vị trí ban đầu.

BS. Thanh Lâm

Nhận biết sùi mào gà

Trên mu dương vật em có nổi lên 2 cái mụn, 1 cái thì phát triển chậm, còn 1 cái chỉ trong 2 ngày đã lớn và lan rộng thành một vùng sưng đỏ, đường kính khoảng 2cm rất khó chịu. Xin hỏi có phải đó là sùi mào gà? Cách chữa trị thế nào?

Nguyễn Lương Trung Trực (15111168@st.hcmuaf.edu.vn)

Theo thư mô tả rất có thể bạn bị bệnh sùi mào gà. Bệnh do một loại virut có tên là Human Papilloma (gọi tắt là HPV) gây ra. Bệnh sùi mào gà ở nam giới giai đoạn đầu có vết sùi như bông cải thường xuất hiện ở vùng đầu dương vật, ở dương vật. Đặc biệt là xuất hiện ở phía bên trong cửa niệu đạo, bên trong, ngoài bao quy đầu, bìu. Đôi khi cũng xuất hiện ở mu. Các nốt sùi có khác nhau về hình trạng, màu sắc, độ lớn nhỏ, số lượng và trong thời kỳ đầu có thể chỉ có vài nốt, nhưng biểu hiện đầu tiên vẫn giống nhau (các mụn nhọt sưng tấy, phần dưới to, phần trên nhỏ). Theo thời gian, thể tích của các nốt sùi này càng tăng. Đối với nam giới mắc bệnh sùi mào gà nặng, các mụn nhọt có thể kết thành hình tròn xung quanh bao quy đầu. Để điều trị, hiện nay chưa có loại thuốc nào đặc trị được bệnh và mức độ lây lan của nó. Thông thường, với tình trạng bệnh nhẹ, bệnh nhân sẽ được chữa trị theo nội khoa tức là sử dụng thuốc uống kết hợp với bôi thuốc. Đối với mức độ nặng, bệnh nhân sẽ được chữa trị theo ngoại khoa bằng các phương pháp tiểu phẫu như đốt điện, đốt sùi bằng tia lazer... Trường hợp của em cần khám ngay tại chuyên khoa da liễu để được xác định bệnh và điều trị sớm, tránh để muộn gây biến chứng ung thư dương vật.

BS. Vũ Ngọc Anh

Cách chăm sóc bệnh nhân sau đột quỵ

Vai trò của người chăm sóc rất quan trọng. Hiểu biết về đột quỵ cũng như cách chăm sóc sau khi bị đột quỵ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phục hồi chức năng cho bệnh nhân.

Đột quỵ xảy ra do cục máu đông làm nghẽn lòng động mạch làm thiếu máu não hoặc gây chảy máu trong não. Việc điều trị ban đầu đối với đột quỵ bao gồm dùng thuốc để phá vỡ cục máu đông, ngăn chặn thiệt hại thêm cho não và phục hồi các chức năng não.

Điều gì xảy ra sau đột quỵ?

Các chức năng cơ thể bị ảnh hưởng: Cơ yếu đi và có thể liệt nửa người. Điều này gây trở ngại cho sự thăng bằng, gây mệt mỏi và giảm vận động; khó khăn trong việc nuốt; tầm nhìn bị thay đổi; khó khăn trong việc kiểm soát bàng quang và ruột làm rối loạn tiểu tiện và đại tiện.

Rối loạn giao tiếp: Một trong những rối loạn giao tiếp phổ biến nhất là chứng mất ngôn ngữ, khó khăn trong nói, viết, đọc hoặc thậm chí hiểu được những gì người khác đang nói khi giao tiếp.Tập phục hồi chức năng cho bệnh nhân sau đột quỵ. Ảnh:Trần Minh

Tập phục hồi chức năng cho bệnh nhân sau đột quỵ. Ảnh:Trần Minh

Suy giảm trí nhớ và tư duy: Đột quỵ thường ảnh hưởng đến trí nhớ. Nếu ảnh hưởng đến vùng não phải, bệnh nhân có thể bị các rối loạn về không gian - nhận thức, làm suy yếu khả năng đánh giá kích thước, khoảng cách, tốc độ, vị trí hoặc cấu trúc. Biểu hiện không thể viết các chữ cái và con số, không nhận biết được phía bên trong hoặc bên ngoài, mặt trái hoặc mặt phải của quần áo. Thậm chí một số bệnh nhân không thể xác định được họ đang đứng hoặc đang ngồi.

Thay đổi cảm xúc: Một trong những thay đổi sau đột quỵ là những thay đổi về cảm xúc. Thay đổi cảm xúc có thể bao gồm lo âu, trầm cảm, dễ cáu kỉnh và thiếu kiểm soát cảm xúc. Khi đột quỵ ảnh hưởng não vùng trán hoặc vùng thân não có thể dẫn đến mất kiểm soát cảm xúc. Biểu hiện có thể cười và sau đó khóc òa đột ngột, thường xảy ra vào ban đêm, nhưng có thể xảy ra ban ngày, đặc biệt là khi bệnh nhân nằm lâu trên giường.

Thay đổi hành vi: Khi đột quỵ̣ ảnh hưởng bên não trái có thể làm cho bệnh nhân chậm chạp, vô tổ chức hay quá thận trọng, đặc biệt trong các hoạt động mới. Thái độ hay do dự và lo lắng, không giống như cách người bệnh ứng xử trước khi bị đột quỵ. Ngược lại, khi đột quỵ ảnh hưởng ở não phải có khả năng làm bệnh nhân có hành động nhanh chóng và bốc đồng hơn. Họ có thể bỏ qua những thách thức và cố gắng để thực hiện các hoạt động vượt quá khả năng của họ.

Cách chăm sóc

Giảm nguy cơ đột quỵ tái phát: Một bệnh nhân đã bị đột quỵ có nguy cơ bị đột quỵ tái phát, nếu không được điều trị thích hợp và thiếu kiểm soát. Để giảm nguy cơ này cần đảm bảo bệnh nhân dùng thuốc đúng cách, thực hiện đúng các bài tập phục hồi và tham khảo ý kiến bác sĩ thường xuyên.Cục máu đông làm nghẽn lòng động mạch gây nhồi máu não.

Cục máu đông làm nghẽn lòng động mạch gây nhồi máu não.

Nắm các thông tin liên quan bệnh và thuốc men: Khi chăm sóc người thân bị đột quỵ, tốt nhất cần trao đổi với bác sĩ để tìm hiểu những gì xảy ra sau một cơn đột quỵ. Tìm hiểu các loại thuốc đã kê toa và tác động của từng loại thuốc, những điều chỉnh cần thiết tại nhà để thích ứng và giúp bệnh nhân hồi phục.

Tìm hiểu các yếu tố liên quan để giúp bệnh nhân phục hồi: Mỗi bệnh nhân bị đột quỵ có các đặc điểm khác nhau, nhưng một số yếu tố chung quyết định sự phục hồi. Bao gồm các yếu tố sau: vị trí của đột quỵ ở não; mức độ tổn thương não; tình trạng sức khỏe của bệnh nhân trước khi đột quỵ; khả năng di chuyển của bệnh nhân; hỗ trợ của người chăm sóc.

Tùy thuộc vào các yếu tố nêu trên, phục hồi có thể mất một thời gian ngắn hoặc dài hơn. Nhiều bệnh nhân đạt được sự phục hồi đáng kể trong vòng 3-4 tháng sau khi đột quỵ. Nhưng ở người khác, phục hồi có thể kéo dài đến 2 năm sau đột quỵ.

Áp dụng vật lý trị liệu là bắt buộc đối với đa số trường hợp sau đột quỵ: Khi bệnh nhân đột quỵ có những biểu hiện: khó khăn trong việc di chuyển; thiếu thăng bằng dẫn đến té ngã; không có khả năng tham gia các hoạt động xã hội; không có khả năng đi bộ hơn 6 phút mà không nghỉ, người chăm sóc cần tham vấn bác sĩ chuyên khoa thần kinh hoặc chuyên gia phục hồi chức năng để quyết định áp dụng điều trị cho người bệnh.

Điều trị ngay khi phát hiện trầm cảm: Khoảng 30-50% bệnh nhân sẽ bị trầm cảm tại một số thời điểm trong quá trình phục hồi. Trầm cảm có thể ảnh hưởng đến sự phục hồi của bệnh nhân. Khi người bệnh có những dấu hiệu trầm cảm như cảm thấy tuyệt vọng, mất hứng thú trong các sở thích trước đây, những thay đổi trong sự thèm ăn và rối loạn giấc ngủ... cần hỏi ý kiến bác sĩ chuyên khoa để điều trị ngay.

Tóm lại, chăm sóc bệnh nhân sau khi bị đột quỵ là một quá trình kéo dài, kiên trì và phải có kiến thức cơ bản. Chăm sóc hiệu quả và khống chế tốt các yếu tố nguy cơ trên bệnh nhân đột quỵ vẫn là chiến lược tối ưu hiện nay, nhằm tránh đột quỵ tái phát và kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân đột quỵ.

TS.BS. Lê Thanh Hải

Cách thoát khỏi trầm cảm sau sinh của một bà mẹ bỉm sữa

Và cũng trong lần này thật may mắn tôi được gặp chị Tuyết- một bà mẹ trẻ đã từng trải qua những ngày tháng trầm cảm sau sinh. Nhưng giờ đây chị như một chuyên gia đang giúp các mẹ bỉm sữa hết thoát khỏi chứng trầm cảm sau sinh.

Giọng đầy hạnh phúc chị Đinh Tuyết kể: “Sau khi sinh con, mình cũng từng bị trầm cảm. Giờ nghĩ lại thật đáng sợ. Tưởng đâu cuộc vượt cạn đẻ thường dễ dàng như bao người khách nhưng đến phút chót bị sốc khi bác sĩ thông báo phải mổ cấp cứu, đưa con ra ngay, nếu không chỉ chậm chút nữa thôi con sẽ bị ngạt… Nghe tin phải mổ cấp cứu, trời đất như quay cuồng. Nhưng, chưa hết, mổ xong mới thật sự là đau đớn,mọi khó khăn cứ thi nhau “đến” với mình, nào bế sản dịch, nào sốt…

Đêm đầu tiên mình vào nhà vệ sinh ôm mặt khóc nức nở gần 30 phút, mặc dù vừa sinh xong cơ thể còn rất mệt mỏi, may ông xã mệt quá ngủ say nên không biết. Thấy thương con và trách mình, lo sợ bản thân không có kinh nghiệm thì sẽ trông con thế nào đây? Việc bị tắc tia sữa cũng làm cho mình cảm thấy chán nản chính bản thân. Cứ thế nhiều lúc mình khóc đến nỗi 2 mắt sưng mọng lên. Khóc xong lại ngồi cả đêm để cố gắng vắt sữa bằng tay, vừa thấy tủi thân, vừa giận mọi người một cách vô cớ, nên dù rất mệt mình nhất quyết không đi ngủ, vừa ngồi vắt từng giọt sữa, vừa nghĩ lung tung. Bây giờ nghĩ lại, mới thấy rất may mắn khi vượt qua giai đoạn khó khăn ấy”.

Câu chuyện của tôi và chị Đinh Tuyết bị gián đoạn bởi chị được mời vào gặp chuyên gia y tế trao đổi việc gì đó liên quan tới công việc dành cho các bà mẹ mang thai và sau sinh mà chị đang theo đuổi.

Chị Tuyết - một bà mẹ trẻ đã từng trải qua những ngày tháng trầm cảm sau sinh

Dõi theo bước chân của chị tôi không tin câu chuyện mà chị kể, bởi nhìn chị bây giờ ít ai nghĩ chị đã bị trầm cảm, bởi hiện tại chị rất năng động, trẻ trung, luôn tràn đầy kiến thức chăm sóc bà bầu và mẹ sau sinh thì làm sao mà có thể bị trầm cảm sau sinh được.

Vốn tò mò nên tôi ngồi đợi chị và rồi mọi chuyện cũng được sáng tỏa khi chị xong việc tiếp tục trò chuyện cùng tôi.

Chị kể tiếp: Lúc ấy, để vượt qua trầm cảm sau sinh phải nhờ rất nhiều vào ông xã, anh đã lôi mình đi qua những chấn động tâm lý sau sinh. Anh dành thời gian bên vợ nhiều hơn, đưa vợ đi chơi, đi dạo và mua sắm. Lúc đó, gặp gỡ bạn bè, đồng nghiệp,.. tất nhiên có cả những chuyên gia tâm lý. Sau đó, tôi không vo tròn trong vòng quay bỉm sữa nữa, tôi được làm việc yêu thích để cảm thấy mình tự do và hữu ích… bỗng dưng tôi thấy tinh thần phấn chấn, cở mở hơn với gia đình, và yêu thương con hơn.

Là người từng trải qua trầm cảm sau sinh nên hơn ai hết tôi hiểu lúc đó các mẹ cần gì và mong muốn gì, đó cũng là động lực để bây giờ tôi cùng các chuyên gia tâm lý thường xuyên tổ chứccác buổi hội thảo offline miễn phí để trao đổi kinh nghiệm kiến thức giúp đỡ các mẹ vượt qua trầm cảm sau sinh.

Càng trò chuyện với chị, tôi thấy mình may mắn được gặp đúng người, với tôi chị như một “chuyên gia” thấu hiểu hết tâm tư và giúp tôi vượt qua những thời gian khó khăn nhất sau sinh.

Về nhà làm theo lời dặn như mở nhạc không lời nghe, rồi cùng chồng đi dạo, đi mua sắm, xem phim, tôi cũng không quá ôm đồm nhiều việc chăm sóc con nữa mà chia sẻ với mẹ chồng, mẹ đẻ… Dần dần tôi thấy mình thay đổi hẳn, những suy nghĩ ấu trĩ cũng không còn nữa. Tôi trở nên vui vẻ và hai vợ chồng cũng tìm lại được những cảm giác hạnh phúc như trước.

Và điều cuối cùng tôi cũng như chị Tuyết muốn gửi tới các ông chồng rằng: các anh chiếm vị trí quan trọng trong hành trình giúp sản phụ thoát khỏi trầm cảm. hơn ai hết, người chồng, gia đình, người thân… cần gần gũi chia sẻ với sản phụ trong thời kì hậu sản, để có thể tránh được những hệ quả đáng tiếc có thể xảy ra.

M.Tuyết

Ngăn chặn bệnh tai khi đi bơi

Nhưng trong khi bơi nếu không được bảo vệ thích hợp, nước xâm nhập vào tai, tồn đọng và bị mắc kẹt bên trong ống tai tạo cơ hội phát triển các bệnh tai của người bơi. Viêm tai ngoài cấp tính là bệnh thường gặp ở người hay bơi lội. Để ngăn chặn tình trạng này, chúng ta cần biết một số cách xử trí cơ bản.

Các triệu chứng bệnh tai ở người đi bơi lội

Bệnh tai khi đi bơi biểu hiện từ mức độ nhẹ đến nghiêm trọng. Các triệu chứng nhẹ bao gồm da có màu ửng đỏ; ngứa nhẹ; đau khi chạm vào hoặc kéo tai. Các triệu chứng trung bình bao gồm có rất nhiều vết đỏ trong da ống tai; tăng đau tai; ngứa nặng; chảy nước hoặc mủ tai. Triệu chứng nghiêm trọng bao gồm đau không chịu nổi có thể khu trú ở tai hoặc có thể lan tới hàm, mặt, đầu và cổ; nghẽn ống tai hoàn toàn; sốt; sưng đỏ và sưng lan ra tai ngoài; sưng hạch bạch huyết ở vùng cổ.

Ngăn chặn bệnh tai khi đi bơiBơi là một cách tập luyện thể dục tuyệt vời nhưng nếu không được bảo vệ thích hợp, nước xâm nhập tai, tồn đọng và bị mắc kẹt bên trong ống tai tạo cơ hội phát triển các bệnh tai.

Cách gì ngăn chặn bệnh?

Tránh kích ứng tai: Nhiều người trong chúng ta có thói quen nhét vào ống tai chồi bông và các đồ vật khác. Đây không phải là một thói quen lành mạnh và nên tránh bằng mọi giá. Điều này có thể gây kích thích lớp niêm mạc của ống tai và làm cho nó dễ bị nhiễm khuẩn hơn. Điều tốt nhất là vệ sinh tai ngoài bằng khăn mềm và không bao giờ chèn bất kỳ thứ sắc bén nào vào tai.

Chắc chắn rằng bơi trong nước sạch: Để tránh bị nhiễm khuẩn tai khó chịu, cố gắng hết sức để bơi trong nước sạch. Bơi trong nước nhiễm bẩn có số lượng vi khuẩn cao có thể dẫn đến nhiều bệnh nhiễm khuẩn. Luôn đảm bảo kiểm tra chất lượng nước là an toàn và tránh bơi khi nghi ngờ về ô nhiễm môi trường nước.

Rửa khô và sạch sẽ sau khi bơi: Sau khi bơi, nghiêng đầu sang hai bên để tai có thể ráo nước. Hãy tắm sau đó và lau tai. Bạn có thể sử dụng khăn sạch hoặc máy sấy tóc để làm khô hoàn toàn tai. Điều này làm giảm nguy cơ bị nhiễm khuẩn tai. Có một số lời khuyên nên dùng một ít rượu để làm khô tai nhưng đừng lạm dụng nó. Việc sử dụng cồn quá nhiều làm nhạy cảm da của tai có thể dẫn đến nhiễm khuẩn.

Chăm sóc da tai: Da trong ống tai có nhiệm vụ ngăn ngừa bất kỳ loại nhiễm khuẩn nào để duy trì sự toàn vẹn của ống tai. Nếu da trong ống tai bị hư hỏng, khô hoặc nứt, là yếu tố làm dễ cho nhiễm khuẩn. Các bệnh lý da như eczema và viêm da có thể ảnh hưởng đến vùng da khu vực này và có nhiều cơ hội phát triển bệnh tai của người bơi lội.

Chú ý đến ráy tai: Ráy tai có tác dụng để bảo vệ tai khỏi bị nhiễm khuẩn. Ráy tai đẩy nước và không cho phép nước tồn đọng trong ống tai. Nhưng quá nhiều ráy tai có thể dẫn đến tắc nghẽn ống tai, nếu có tình trạng ráy tai gây tắc nghẽn nặng bạn nên đến bác sĩ chuyên khoa để giải quyết.

Một số biện pháp khác: Cẩn thận khi sử dụng các sản phẩm làm tóc như thuốc nhuộm tóc hoặc xịt tóc. Các sản phẩm này chứa rất nhiều chất hóa học và có thể gây kích ứng da gây ra phản ứng dị ứng và nhiễm khuẩn. Để ngăn những hóa chất này đi vào tai, bạn có thể sử dụng bông nút tai trong khi nhuộm tóc hoặc xịt tóc. Những người sử dụng máy trợ thính cần phải cẩn thận hơn vì có thể đẩy ráy tai vào sâu hơn. Nếu bạn nghĩ mình bị ráy tai quá mức hoặc có bất kỳ bệnh nào trên da ống tai, hãy tham khảo ý kiến chuyên gia tai mũi họng.

Ngăn chặn bệnh tai khi đi bơiCần chăm sóc tai đúng cách để tránh bị viêm nhiễm.

Một số cách xử trí bệnh tai khi đi bơi

Áp tai với khăn nóng và khô: Áp tai vào một khăn nóng và khô có thể giảm đau và rất hữu ích để kiểm soát các triệu chứng. Có thể làm nóng khăn trong lò vi sóng, đặt khăn trong túi niêm phong và kiểm tra nhiệt độ trước khi áp vào tai để tránh bị bỏng. Hãy cẩn thận nếu áp dụng cho trẻ nhỏ.

Hỗn hợp rượu và giấm: Trộn một ít giấm trắng và cồn 70% với lượng bằng nhau và làm ấm lên một ít. Nhiệt độ của hỗn hợp phải ở cùng nhiệt độ với cơ thể. Nhỏ hỗn hợp vào bên trong tai bằng một ống tiêm và để chất lỏng chảy ra. Hãy cẩn thận khi làm việc này và đừng cố gắng nếu có dấu hiệu nhiễm khuẩn tai nặng.

Liên hệ với bác sĩ tai mũi họng nếu bạn mắc bệnh đái tháo đường hoặc bất kỳ tình trạng sức khỏe tiềm ẩn nào khác. Cần tới cơ sở y tế ngay nếu có nhiều vết đỏ, sưng, chảy máu hoặc sốt. Chóng mặt, mất thính lực, yếu các cơ mặt cũng là các dấu hiệu cảnh báo và cần được chuyên gia đánh giá ngay.

Kháng sinh có thể được sử dụng để điều trị nhiễm khuẩn tai nặng dưới dạng thuốc nhỏ tai, đường uống hoặc tiêm. Những người bị suy giảm miễn dịch, có loét trong ống tai, đái tháo đường hoặc bất kỳ bệnh nặng khác cần được chăm sóc đặc biệt và điều trị các bệnh đi kèm. Phẫu thuật, thủ thuật áp tai được khuyến cáo trong những trường hợp rất nghiêm trọng để lấy sạch mủ và làm sạch ống tai.

BS. Nguyễn Hải Lê

Phát hiện và chăm sóc trẻ sốt xuất huyết tại nhà

Cách phát hiện bệnh SHX ở trẻ em

Bệnh sốt xuất huyết Dengue (SXHD) thường bắt đầu bằng triệu chứng sốt với các đặc điểm: sốt đột ngột, liên tục và sốt cao. Triệu chứng xuất huyết thường xảy ra sau khi bắt đầu sốt một vài ngày với biểu hiện rất đa dạng: chảy máu cam, chảy máu dưới da, nôn hay tiểu ra máu. Tuy nhiên, có những trẻ hoàn toàn không bị xuất huyết, bệnh chỉ biểu hiện với các triệu chứng sốt, ho, đau họng cho nên có thể nhầm với viêm họng.

Bệnh SXHD xảy ra phức tạp, đặc biệt là biến chứng sốc có thể dẫn đến tử vong, vì vậy được chia thành 4 thể bệnh (cấp) để tiện cho việc theo dõi đánh giá và tiên lượng bệnh.

Ở cấp 1, người bệnh chỉ sốt, chưa có triệu chứng xuất huyết. Cấp 2, người bệnh sốt có triệu chứng xuất huyết (xuất huyết dưới da, chảy máu cam, chảy máu chân răng, khạc ra máu, thậm chí nôn ra máu, tiểu ra máu hoặc kinh nguyệt kéo dài (nữ giới). Ở cấp 3, người bệnh bắt đầu có dấu hiệu sốc và cấp 4 thì đã bị sốc nặng.

Đặc biệt, cần lưu ý là xuất huyết không phải là một triệu chứng bắt buộc, có hay không xuất huyết thì bệnh vẫn có thể xảy ra sốc. Sốc là biến chứng nguy kịch nhất của bệnh SXH. Đa số trẻ SXH bị tử vong là do sốc nặng.

Sốc là một hội chứng (gồm nhiều triệu chứng) với sự thể hiện tụt nhiệt độ cơ thể (thân nhiệt giảm xuống dưới mức bình thường), nếu thân nhiệt giảm cùng với thời điểm của thuốc hạ nhiệt tác động mạnh thì rất nguy hiểm. Người bệnh có thể bị giảm tri giác, tinh thần biểu hiện kém lanh lợi, lờ đờ, thậm chí lơ mơ, mê sảng. Kèm theo các biểu hiện đó là tụt huyết áp.

Phát hiện và chăm sóc trẻ sốt xuất huyết tại nhà 1Muỗi mang virut SXH gây bệnh cho trẻ.

Chăm sóc trẻ bị SXH như thế nào?

Khi nghi ngờ bị SXH thì cần đưa trẻ đi khám ở cơ sở y tế gần nhất và khi đã được bác sĩ chẩn đoán là bị SXHD thì cần tuân theo sự tư vấn của bác sĩ. Trẻ sốt xuất huyết cấp 1 sẽ được điều trị tại nhà theo đơn, có hẹn ngày khám lại.

Với cấp 2 thì trẻ có thể điều trị tại nhà có theo dõi chặt chẽ hoặc nhập viện nếu xét thấy cần thiết. Ở đây, cần lưu ý là “theo dõi” tại gia đình 24/24giờ chứ không phải cho về không cần can thiệp gì. Cần theo dõi nhiệt độ của trẻ bằng cách cặp nhiệt độ ở nách hoặc hậu môn hay cặp bên khóe miệng cứ vài giờ một lần.

Trong trường hợp dùng cặp nhiệt độ điện tử thì trước khi cặp cho trẻ nên cặp thử trên người bình thường để đánh giá tính xác thực của dụng cụ điện tử dùng đo thân nhiệt, nếu thấy sai lệch thì nên thay bằng nhiệt kế thủy ngân.

Cần cho trẻ nghỉ ngơi tuyệt đối, không nên để trẻ nô đùa nhiều và nên tránh dùng quần áo quá dày hoặc mặc nhiều áo quần hay ủ kín trẻ. Nếu nhiệt độ của trẻ trên 38oC, cần cho trẻ uống thuốc hạ nhiệt loại paracetamol đơn chất với liều lượng từ 10 - 15mg/kg trọng lượng cơ thể trẻ, cứ 6 giờ/lần nếu trẻ vẫn còn sốt cao. Sau khi uống thuốc hạ nhiệt 1 giờ, cần đo lại nhiệt độ. Tuyệt đối không dùng aspirin vì chất này sẽ làm rối loạn đông máu gây chảy máu kéo dài rất nguy hiểm cho người bị SXHD, đặc biệt là trẻ em.

Nếu thân nhiệt của trẻ trên 37 độ, dưới 38 độ thì không cần cho trẻ uống thuốc hạ nhiệt mà chỉ cầnlau mát cho trẻ bằng khăn nhúng nước ấm (nước có nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ của trẻ vài ba độ) để làm thoát nhiệt cho trẻ dễ dàng.

Khi trẻ bị sốt cao trong một thời gian dài (trên 39độ) sẽ làm cho trẻ bị mất nước và các chất điện giải kèm theo, dẫn đến rối loạn thần kinh, thậm chí co giật. Vì vậy, cần cho trẻ uống nhiều nước để bù dắp lượng nước bị mất do sốt, nếu trẻ uống được nước pha từ oresol thì càng tốt.

Nếu không có oresol, có thể cho trẻ uống nước gạo rang hoặc nước muối (cho 2 thìa cà phê muối ăn cùng với 8 thìa cà phê đường trong 1 lít nước đun sôi, để nguội, uống dần trong ngày). Nên cho trẻ uống thêm nước cam, chanh tươi để có thêm sinh tố C. Khi mắc bệnh, trẻ thường có triệu chứng nôn mửa, miệng nhạt, lười ăn hoặc không chịu ăn, làm cho trẻ ăn không đủ lượng thức ăn cần thiết nên dễ bị hạ đường huyết.

Phát hiện và chăm sóc trẻ sốt xuất huyết tại nhà 2Theo dõi thân nhiệt khi trẻ có biểu hiện sốt.

Để đảm bảo cho trẻ ăn đủ chất, cần tiếp tục cho trẻ ăn các thức ăn hàng ngày, dễ tiêu. Nếu trẻ ăn ít hoặc bị nôn mửa thì cần cho trẻ ăn nhiều bữa để cung cấp đủ năng lượng cho trẻ, tránh bị suy kiệt sau SXHD. Cần tránh các loại thức ăn có nhiều mỡ. Trẻ đang bú mẹ thì nên cho trẻ bú thêm số lần và kéo dài thêm thời gian. Cần dùng thêm sữa để cung cấp chất dinh dưỡng cho trẻ.

Phải đưa trẻ đến bệnh viện ngay

Nếu trẻ có dấu hiệu bất thường như hạ thân nhiệt, xuất huyết (xuất huyết dưới da, chảy máu cam, nôn ra máu…) phải khẩn trương cho trẻ đi bệnh viện ngay không được chần chừ.

PGS.TS. Bùi Khắc Hậu

Tại sao lại phải ăn tối trước 19h?

Ăn tối hay còn gọi là bữa tối là bữa ăn cuối ngày của mỗi chúng ta, nó giúp bạn nạp năng lượng cho cơ thể sau một ngày hoạt động vất vả.

Việc ăn uống điều độ, đúng giờ sẽ giúp bạn có hệ tiêu hóa tốt, khỏe mạnh, Tuy nhiên, nhiều người vì cuộc sống, công việc bận rộn nên thường ăn tối quá muộn mà không hề biết đến tác hại khôn lường của nó.

Tác hại của việc ăn tối muộn

Béo phì

Ăn tối muộn việc hấp thụ và tiêu hao năng lượng chậm khiến nó tích tụ lại dưới dạng mỡ gây béo phì.

Tiểu đường

Nhiều người có thói quen ăn nhiều chất béo và protein sẽ tạo áp lực lớn cho tuyến tụy, khiến nó yếu đi. Đây là nguyên nhân dẫn đến nguy cơ tiểu đường cao. Đặc biệt là ở người cao tuổi.

Bệnh tim mạch

Chất dinh dưỡng lớn được thu nạp vào buổi tối sẽ khiến lượng cholesterol trong máu tăng lên, tích tụ gây tắc nghẽn, xơ vữa động mạch, ảnh hưởng đến tim mạch.

Ăn tối muộn gây béo phì

Ăn tối muộn gây béo phì

Sỏi niệu đạo

Một số nghiên cứu khoa học đã cho rằng ăn tối muộn có mối quan hệ chặt chẽ với bệnh sỏi niệu đạo.

Ung thư đường ruột và ung thư dạ dày

Ăn tối quá muộn khi đó lương thức ăn chưa tiêu thụ hết sẽ tồn đọng lại khi bạn đi ngủ. Việc thức ăn dồn ứ ở dạ dày và đường ruột là nguyên nhân dẫn đến các bệnh về khối u đường ruột, nguy cơ ung thư dạ dày và ung thư đường ruột cao.

Cao huyết áp

Hàm lượng thịt cao trong bữa tối sẽ khiến dạ dày và đường ruột phải hoạt động vất vả, kích thích còn dễ gây huyết áp cao và biến chứng.

Đột quỵ

Nếu là một bữa ăn tối muộn và kèm theo đó là việc bạn sử dụng rượu bia và đi ngủ ngay sau đó thì rất dễ bị trúng gió, đột quỵ khi cơ thể yếu.

Ăn tối đúng giờ sẽ giúp bạn có sức khỏe tốt

Ăn tối đúng giờ sẽ giúp bạn có sức khỏe tốt

Lý do khiến bạn nên ăn tối trước 19h

Ăn tối quá muộn là một sai lầm về dinh dưỡng. Do đó, các chuyên gia y tế khuyên bạn nên ăn cơm tối trước 19h hàng ngày là tốt nhất.

Khi ăn tối vào thời điểm này bạn sẽ có 1 khoảng thời gian để vận động và tiêu hóa thức ăn. Hơn thế nữa, khi ăn tối trước 19h bạn sẽ được hưởng những lợi ích không ngờ cho sức khỏe như:

Có vóc dáng thon thả

Năng lượng được nạp vào cơ thể sẽ có ít nhất là 3 giờ đồng hồ để bạn vận động và tiêu hóa thức ăn (nếu bạn có thói quen ngủ vào lúc 22h giờ đêm, đây cũng “giờ vàng” cho giấc ngủ mà các chuyên gia y tế luôn khuyên chúng ta thực hiện đúng giờ).

Khoảng thời gian này bạn có thể thư giãn và tham gia một số hoạt động như dạo phố, đi bộ, hay dọn dẹp một số công việc nhà. Năng lượng sẽ tiêu hao đi một phần và khiến bạn tránh xa tình trạng béo phì, luôn có vóc dáng thon thả.

Hệ tiêu hóa khỏe mạnh

Một bữa tối đúng giờ, và hệ tiêu hóa có thời gian để hoạt động mạnh trước khi bạn đi vào giấc ngủ khiến nó khỏe mạnh hơn khi bạn dùng cơm tối vào thời điểm muộn hơn gần kề với giấc ngủ thì không tốt tẹo nào.

Ăn tối sớm giúp bạn ngủ ngon hơn

Ăn tối sớm giúp bạn ngủ ngon hơn

Có giấc ngủ sâu và ngon hơn

Việc tiêu hóa kém, chưa tiêu hóa hết thức ăn sẽ khiến bạn bị đầy bụng, khó chịu ảnh hưởng đến giấc ngủ của bạn.

Đồng thời lượng nước tích trữ trong cơ thể lớn chưa được đào thải hết sẽ khiến bạn phải thức giấc để đi tiểu.

Vì vậy, ăn tối sớm lượng thức ăn được tiêu hóa hết và bạn được tận hưởng một giấc ngủ sâu và ngon lành đến sáng hôm sau.

Nạp năng lượng cho cơ thể

Ăn tối trước 19h sẽ giúp não bộ và các cơ quan trong cơ thể hoạt động một cách sáng suốt, đồng bộ vì được nạp năng lượng sau một ngày lao động vất vả.

Giúp bạn tỉnh táo hơn vào ngày hôm sau

Hệ tiêu hóa tốt, một giấc ngủ ngon, nhờ bữa tối đúng giờ sẽ giúp bạn cảm thấy khỏe khoắn và sảng khoái hơn vào ngày hôm sau.

3 thói quen cực nguy hiểm khi sử dụng laptop

Mai Hoa

7 cách hữu hiệu giảm nguy cơ mắc ung thư vú

Cần phải biết những nguy cơ gây ung thư vú cao ở phụ nữ không chỉ để phòng tránh những yếu tố nguy hại này cho bản thân, mà còn để chia sẻ kiến thức này cho con gái cũng như chị em, bạn bè về chúng. Dưới đây là các mẹo phòng ngừa ung thư vú quan trọng các bà mẹ nên biết:

1. Dinh dưỡng tốt hơn đến từ thực phẩm nguyên chất và thực phẩm hữu cơ

Một chế độ ăn uống lành mạnh cung cấp dinh dưỡng tốt là nền tảng của việc có sức khoẻ tốt. Điều quan trọng là phải dạy cho con cái chúng ta cách ăn thức ăn bổ dưỡng, lành mạnh và tránh thức ăn đã đóng gói, chế biến sẵn. Mục đích là để tránh hoặc giảm thiểu đường, quay về với những loại thực phẩm nguyên chất và tự nhiên như rau, quả, ngũ cốc, đậu và thực phẩm động vật chất lượng cao. Cơ thể của chúng ta được thiết kế để hoạt động tối ưu trong chế độ ăn uống hấp thu thực phẩm tự nhiên chứ không phải thiết kế để hấp thu thực phẩm chế biến sẵn như các loại thịt rán, nước có ga và khoai tây chiên.

Thực phẩm động vật hữu cơ cũng là một sự lựa chọn tốt hơn so với thực phẩm từ động vật nuôi công nghiệp bởi sự lạm dụng các chất kích thích, hoóc môn và kháng sinh. Chính điều này làm tăng tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú ở người.

Hình ảnh khối u trong bệnh ung thư vú

2. Tránh các sản phẩm mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân độc hại

Các hóa chất độc hại hiện nay xuất hiện nhiều ở những sản phẩm mà chúng ta sử dụng trong nhà và trên cơ thể, từ sữa rửa mặt, phấn kẻ mắt đến nước rửa bát, nước cọ toa lét... Các hóa chất này được biết là các chất kích thích hormon. Ngoài chất độc và chất gây ung thư, những chất này có thể làm tăng lượng estrogen trong cơ thể qua thời gian và rất khó giải độc qua gan. Được gọi là "xenoestrogens" (estrogen ngoại vi), chúng bắt chước estrogen trong cơ thể và có thể làm thay đổi hoạt động của hormon.

Giải pháp đơn giản là sử dụng các sản phẩm chăm sóc cá nhân và mỹ phẩm không độc hại hoặc hữu cơ. Tốt nhất là phải biết đọc nhãn mác sản phẩm, tìm chứng nhận hữu cơ trên nhãn và tìm hiểu, theo dõi những thành phần có trong sản phẩm.

3. Tập thể dục

Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ ước tính rằng có thể tránh được một nửa số ca tử vong do ung thư bằng cách tập thể dục. Các nghiên cứu gần đây cho biết béo phì, đặc biệt là ở những người trưởng thành, cũng làm tăng nguy cơ ung thư vú.

Điều quan trọng là dạy cho con bạn một lối sống tích cực và tốt nhất là dẫn dắt bằng ví dụ cụ thể. Đi bộ đường dài, trượt băng, đi dạo trong công viên, tham gia các môn thể thao, ballet, khiêu vũ và tham gia các hoạt động thể chất…. hãy khuyến khích con bạn bất cứ điều gì để con bạn vận động. Ngoài ra, hãy nói cho trẻ lý do tại sao điều đó lại quan trọng như vậy.

4. Giữ điện thoại di động xa cơ thể

Các nghiên cứu đã xác định rằng việc sử dụng điện thoại di động làm tăng cơ hội cho các khối u não. Trẻ em dễ bị tổn thương bởi tần số điện từ vì xương sọ và đầu nhỏ hơn so với người trưởng thành. Mô não của chúng cũng có độ dẫn cao hơn và điều này làm tăng nguy cơ mắc bệnh.

Mặc dù hiện nay chưa có bất kỳ nghiên cứu nào liên quan đến nguy cơ mắc ung thư vú khi sử dụng điện thoại di động, nhưng rất nhiều phụ nữ sử dụng áo ngực để giữ điện thoại di động, đó là nguyên nhân phát triển ung thư vú.

5. Thiền hoặc áp dụng các kỹ thuật thư giãn khác

Ta đều biết rằng những giai đoạn căng thẳng không kiểm soát được kéo dài có thể dẫn đến các bệnh như ung thư. Hầu hết trong số các bệnh nhân đều nói rằng họ đang chịu một áp lực nặng nề bất thường trước khi dẫn đến các chẩn đoán ung thư vú. Các bác sĩ có khuynh hướng bác bỏ điều này, nhưng khoa học đang bắt đầu hiểu được cách cortisol - hoormon chính được giải phóng trong giai đoạn căng thẳng, có thể dẫn đến bệnh như ung thư vú.

6. Không hút thuốc lá và uống rượu

Việc hút thuốc lá và uống rượu đều làm bạn có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, các bệnh ung thư khác và bệnh tim. Hút thuốc làm gia tăng nguy cơ ung thư, đặc biệt với người hút thuốc thường xuyên trước khi sinh con đầu lòng. Các nghiên cứu về rượu đã chỉ ra rằng so với những người không uống rượu, những người uống rượu 1 lần mỗi ngày có nguy cơ nhỏ gia tăng ung thư vú. Tuy nhiên, những người sử dụng 2-5 đồ uống hàng ngày sẽ làm tăng nguy cơ ung thư vú gấp 1,5 lần so với những người không uống rượu.

Hương Khuê

((Theo Cancer Prevention))

Phòng ngừa đục thủy tinh thể

Nguyễn Thanh Thủy (Hà Nội)

Bệnh đục thủy tinh thể là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây mù trên thế giới và ở Việt Nam, thường gặp ở người trên 50 tuổi. Bệnh diễn tiến từ từ, biểu hiện ban đầu là giảm độ kính lão do xuất hiện cận thị chiết xuất; khi ra ánh sáng, mắt sẽ khó chịu nhưng không bị đau nhức. Sau đó bệnh nặng hơn, mắt như nhìn qua một lớp kính mờ, thấy một điểm đen cố định trên nền mắt sáng; dần dần bệnh nhân không còn nhìn thấy gì.

Phòng ngừa đục thủy tinh thể

Nguyên nhân gây đục thủy tinh thể là thiếu ôxy, tăng lượng nước, giảm protein. Các yếu tố nguy cơ gây bệnh bao gồm: tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, ánh sáng nhân tạo (đèn pha sân khấu, trường quay phim, đèn cao áp...), tiếp xúc với virut, vi khuẩn, chất độc của môi trường, khói (thuốc lá, máy xe, nhà máy...). Sự tiếp xúc này sẽ làm tổn thương tiềm tàng thành phần protein của thủy tinh thể, làm mất dần protein và dẫn đến đục.

Chế độ dinh dưỡng có liên quan mật thiết với sự hình thành đục thủy tinh thể. Chế độ ăn giàu chất chống ôxy hóa và chức năng gan tốt sẽ có tác dụng giúp phòng ngừa bệnh. Người bị đục thủy tinh thể có khuynh hướng thiếu vitamin C, đồng, mangan, kẽm... Để phòng ngừa đục thủy tinh thể, cần lưu ý: bỏ hút thuốc lá nếu có hút, ăn nhiều đậu lăng (lentils), hành, tỏi, rau bina, bắp cải, giá, đậu và hạt tươi... Xét nghiệm xem có bị ngộ độc chì hay thủy ngân không? Phát hiện và điều trị suy giáp, đái tháo đường, rối loạn nước và điện giải, tăng cholesterol và triglycerid máu... Tẩy giun và khử độc gan định kỳ 12 tháng một lần. Không tiếp xúc trực tiếp với tia UV. Nếu làm việc trong phòng có máy lạnh, phải dành thời gian cho mắt nghỉ ngơi, mỗi giờ nên nhắm mắt khoảng 2 phút, ra ngoài hít thở khí trời...

BS. Minh Châu

Bác sĩ Việt ở Mỹ nói gì về Vaccine?

PV: Trên mạng xã hội facebook tại Việt Nam hiện nay đang có phong trào antivaccine hay bài trừ Vaccine vì lo ngại những tác dụng phụ của nó, xin bác sĩ cho biết, việc tiêm phòng Vaccine có an toàn không?

BS. Wynn Trần: Trước hết phải hiểuVaccnie là gì? Vaccine một cách ngăn ngừa bệnh bằng cách tăng cường hệ miễn dịch dành cho cơ thể. Hệ miễn dịch của cơ thể như một đứa trẻ khi lớn lên thì hệ miễn dịch cũng cần phải tăng cường lên.

Có nhiều cách tăng cường hệ miễn dịch như cho cơ thể đánh với một con gấu chẳng hạn . Để hình dung dễ hơn, khi đưa vaccine vào cơ thể đứa trẻ cũng giống như mình đưa con gấu vào thể để đứa trẻ nó tập đánh, tất nhiên con gấu này đã được làm yếu đi, thậm chí đã bị chết.

Cơ thể được làm quen với việc đánh con gấu lần sau có con gấu thật xuất hiện thì cơ thể nhận được tín hiệu phải đánh con gấu đó vì mình đã được huấn luyện để đánh con gấu. Hiều một cách đơn giản chích ngừa vaccine là mình tập cho cơ thể mình tấn công một căn bệnh bằng cách đưa mầm bệnh vào cơ thể mà mầm bệnh ấy đã bị làm yếu đi.

Phải khẳng định rằng Vaccine rất an toàn, theo hiệp hội Nhi khoa Hoa Kỳ, viện Nhi khoa quốc gia Hoa Hỳ và WHO dựa trên thống kê mà nói Vaccine an toàn, thậm chí còn an toàn hơn uống Vitamin. Tại Mỹ, người Mỹ rất hay uống Vitamin nhưng các nghiên cứu lại chỉ ra rằng tác dụng phụ của uống cũng như rủi ro do uống Vitamin còn cao hơn cả tiêm Vaccine.

PV: Một trong những nguyên nhân khiến nhiều người antivaccine là do tại Việt Nam có xảy ra một số trường hợp tử vong do tiêm Vaccine Quinvaxem. Trong đó có ý kiến cho rằng do Quinvaxem là Vaccine nguyên bào nên không an toàn như Vaccine vô bào, ý kiến của BS về vấn đề này?

BS. Wynn Trần: Vaccine Quinvaxem là Vaccine miễn phí và Pentaxim là Vaccine dịch vụ, hai Vaccine này là Vaccine 5 trong 1, còn Infanrixhexa là Vaccine 6 trong 1. Lý do Vaccine Quinvaxem nhiều tác dụng phụ hơn Vaccine dịch vụ Pentaxim là do Quinvaxem là Vaccine nguyên bào như bạn nói.

Điều này được lý giải thế này. Hãy trở lại hình tượng con gấu như tôi nói ở trên, khi tiêm Vaccine Quinvaxem vào cơ thể có nghĩa là mình đưa nguyên con gấu bị bệnh hoặc bị yếu vào cơ thể để cho hệ miễn dịch của mình đánh. Việc đưa nguyên một con gấu vào sẽ có tác dụng phụ nhiều hơn và để đánh con gấu đó cơ thể sẽ phải vất vả hơn dù nó đã bị làm yếu đi.

Còn Vaccine dịch vụ là vô bào thì họ không đưa nguyên con gấu mà chỉ cắt một phần con gấu đưa vào, cơ thể đứa bé cũng nhận ra cần phải đánh một phần con gấu đo, nhưng vì là một phần của con gấu nên cơ thể sẽ không phải vất vả để đánh lại điều này đồng nghĩa với việc tác dụng phụ sẽ ít hơn.

Như vậy, nếu tiêm phòng Vaccine Quinvaxem chúng ta hình dung phải chiến đấu với cả một con gấu, thời gian đầu sẽ vất vả nhưng nếu thắng được thì một thời gian sau cơ thể sẽ mạnh hơn và nếu con gấu thật xuất hiện thì cơ thể cũng nhận ra và dễ dàng đánh con gấu này hơn. Còn Vaccine dịch vụ thì mới đầu cơ thể chỉ tập đánh một bộ phận của con gấu, có vẻ như nhàn hơn, nhưng sau này gặp cả một con gấu thật sẽ phải vất vả hơn để đánh thắng nó.

Vaccine Quinvaxem được đưa vào tiêm chủng ở Việt Nam được khoảng 7 năm, số lượng tiêm phòng hàng triệu mũi, vì tiêm nhiều quá nên theo thống kê mà nói số từ vong sẽ nhiều hơn. Nếu đọc báo nghe con số tử vong thì rất sợ, nhưng nếu lấy số triệu mũi được tiêm và chia cho số tử vong thì còn ít hơn cả Vaccine Infarixhexa, 6 trong 1.

PV: Có nhiều ý kiến cho rằng Vaccine nguyên bào như Vaccine Quinvaxem thường được sử dụng ở các nước đang phát triển, từ đó có tâm lý “của rẻ là của ôi, của không ra gì” và nghi ngờ tính hiệu quả của sản phẩm, xin bác sĩ cho biết quan điểm của mình?

BS.Wynn Trần: Có nhiều ý kiến nhưng một trong những lý do họ giải thích là đưa Vaccine có nhiều tác dụng phụ như Vaccine Quinvaxem vào các nước thứ 3 như Việt Nam là họ dựa vào hệ thống y tế của nước đó.

Những nước phát triển như Mỹ chẳng hạn hệ thống y tế phát triển hơn nên nếu có dịch bệnh thì ứng phó tốt hơn, trong khi các nước đang phát triển như Việt Nam mạng lưới y tế chưa phát triển sẽ gặp khó khăn nếu không có loại Vaccine mạnh hơn để phòng bệnh. Vì thế, theo cá nhân tôi thì Vaccnie Quinvaxem vẫn phù hợp với Việt Nam trong tình hình hiện nay.

PV: Để nói một lời với các bậc cha mẹ có con ở độ tuổi tiêm chủng trong bối cảnh như hiện nay, bác sĩ sẽ nói gì?

BS. Wynn Trần: Tôi nghĩ bậc cha mẹ có con em trong độ tuổi thì nên đưa đi trích ngừa, phải đi trích ngừa, và tuân thủ theo hướng dẫn y tế cũng như theo dõi tác dụng phụ, theo dõi bất kỳ triệu chứng nào như sốt cao, co giật, khóc thét, bỏ bú tím tái khó thở...cần đưa đến bệnh viện hoặc cơ sở y tế gần nhất..

Trân trọng cảm ơn bác sĩ!

Bác sĩ Huynh Wynn Tran sinh tại Bạc Liêu, Tốt nghiệp Đại học Kiến trúc University of Michigan, Tốt nghiệp chuyên ngành Y sinh học - trường Đại học Grand Valley State University, Mỹ, tốt nghiệp văn bằng Tiến sĩ Y Khoa ĐH New York tai Buffalo, Mỹ.Bác sĩ nội trú chẩn đoán hình ảnh tại Bệnh viện Đại học University of Florida, bác sĩ nội trú chuyên khoa nội tổng quát Bệnh viện St Joseph Mercy Health. Hiện anh đang làm bác sĩ tại tổ chức phi lợi nhuận bang Michigan, Mỹ

Nguyễn Tuệ

(Trích từ Youtube Phố Bosla TV)

Những dấu hiệu cảnh báo thiếu hụt vitamin D ở phụ nữ

Dưới đây là một số dấu hiệu cảnh báo thiếu hụt vitamin D ở chị em:

Kiệt sức

Khi cơ thể không hấp thu được calci do thiếu vitamin D, bạn luôn cảm thấy yếu và kiệt sức. Hãy đảm bảo đủ lượng vitamin D mà cơ thể cần để hỗ trợ cung cấp năng lượng cần thiết cho cả ngày.

Đau cơ và xương

Một trong những triệu chứng dễ nhận thấy của thiếu hụt vitamin D ở phụ nữ là hiện tượng đau cơ và xương nặng. Khi chúng ta có tuổi, suy yếu xương có thể là một vấn đề thường gặp, tuy nhiên nếu đau cơ xảy ra ở những người trẻ, đó có thể là do thiếu hụt vitamin D.

Những dấu hiệu cảnh báo thiếu hụt vitamin D ở phụ nữ

Dễ bị gãy xương

Khi xương yếu, ngay cả một cú ngã nhẹ có thể làm gãy xương. Đây cũng là một dấu hiệu của thiếu hụt vitamin D.

Thường xuyên ốm

Thiếu hụt vitamin D có thể làm suy giảm hệ miễn dịch, khiến bạn thường xuyên bị ốm. Vitamin D hỗ trợ cơ thể tạo ra các hợp chất kháng khuẩn giúp phòng bệnh.

Trầm cảm

Một vài nghiên cứu cho thấy, thiếu hụt vitamin D có thể gây trầm cảm, đặc biệt ở phụ nữ. Vitamin D đóng vai trò quan trọng đối với chức năng não bộ.

Vết thương lâu lành

Thiếu vitamin D có thể làm chậm quá trình lành vết thương. Nếu bạn gặp phải hiện tượng này, hãy kiểm tra xem bạn có bị thiếu hụt vitamin D không.

Rụng tóc

Căng thẳng có thể gây rụng tóc. Tuy nhiên, chế độ ăn cũng đóng một vai trò quan trọng, thiếu các dưỡng chất trong cơ thể như vitamin D có thể gây rụng tóc ở phụ nữ.

BS P.Liên

(Theo boldsky)

Đái tháo đường ở trẻ em: Nguy hiểm nhưng phòng ngừa được

Bệnh đái tháo đường (đtđ) ở trẻ em ngày càng có xu hướng gia tăng và rất khó điều trị vì trẻ em luôn rất cần nhiều dinh dưỡng để phát triển. Bên cạnh đó, tình trạng trẻ mắc đtđ týp 2 cũng đã xuất hiện và ngày càng tăng mà nguyên nhân là do thói quen ăn uống và lối sống thiếu lành mạnh.

ĐTĐ là một trong những bệnh mãn tính có thể gặp ở mọi lứa tuổi từ trẻ em tới người già. Đây là bệnh rất thường gặp, lại khó khống chế, nhất là ở trẻ em, vì từ trước đến nay hầu hết mọi người đều nghĩ rằng chỉ có người lớn mới mắc bệnh nhưng trên thực tế thì có rất nhiều trẻ mắc căn bệnh nguy hiểm này.

Bệnh ĐTĐ ở trẻ em thuộc nhóm phụ thuộc insulin, xảy ra do tuyến tụy không có khả năng sản xuất đủ lượng insulin cần thiết để hấp thu và sử dụng đường làm năng lượng nuôi cơ thể, là bệnh thường gặp ở trẻ em, chiếm 90 - 95% là trẻ dưới 16 tuổi. ĐTĐ ở trẻ em là bệnh giống như bệnh miễn dịch vì hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ tấn công vào mô hoặc những tổ chức tế bào của cơ thể trong đó có insulin ở tuyến tuỵ bị tấn công và phá hủy.

Hiện nay, bệnh ĐTĐ ở trẻ tuy không phổ biến nhưng có rất nhiều thay đổi theo chiều hướng gia tăng về số lượng. Trong 30 năm qua số lượng các trường hợp mắc bệnh ĐTĐ ở trẻ đã tăng gấp 3 lần. Và các nước châu u, châu Mỹ cũng đã phát hiện ĐTĐ týp 2 mà nguyên nhân có thể là do xu hướng gia tăng trẻ béo phì trong xã hội.

Đái tháo đường ở trẻ emTrẻ bị ĐTĐ cần phải theo dõi đường huyết thường xuyên – ẢNH MINH HỌA

Các nguyên nhân sau

ĐTĐ týp 1 ở trẻ là bệnh có tính chất di truyền, do rối loạn tổng hợp insulin, rối loạn nơi sản xuất insulin và có tính chất bẩm sinh.

30 năm qua, số lượng các trường hợp mắc bệnh ĐTĐ ở trẻ đã tăng gấp 3 Lần

ĐTĐ týp 2 vốn thường gặp ở người lớn do liên quan đến yếu tố ăn uống, béo phì, tăng huyết áp, ít vận động nên không tiêu hao năng lượng...

Hầu hết trẻ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 ở nước ta cũng có mối liên hệ với chứng thừa cân, béo phì bởi lối sống thiếu cân bằng và chứng ăn uống thiếu điều độ gây nên. Bên cạnh đó, một phần nguyên nhân nữa là do nhận thức của những bậc phụ huynh do cưng chiều nên đã có không ít trường hợp khi trẻ đến khám vì tình trạng thừa cân, béo phì và có nguy cơ cao mắc bệnh ĐTĐ týp 2 nhưng cha mẹ cho rằng trẻ gầy và lười ăn. Trong khi đó, việc điều trị cho trẻ ĐTĐ týp 2 không hề đơn giản vì người bệnh ĐTĐ týp 2 ngoài việc dùng thuốc còn phải thực hiện chế độ ăn kiêng cực kỳ nghiêm ngặt nhưng với trẻ thì không thể bắt trẻ ăn kiêng cho nên việc tạo lập ý thức về bệnh cho trẻ không dễ.

Bên cạnh đó, nếu điều trị bệnh ĐTĐ không đúng thì sẽ gây ra những biến chứng nhất định, trong đó có hạ đường huyết nhưng vì não trẻ em luôn cần được cung cấp một lượng đường nhất định cho nên khi hạ đường huyết sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến não, làm giảm sự phát triển của não dẫn đến giảm trí thông minh và giảm thị lực.

Cũng như người trưởng thành, lý do mắc bệnh ĐTĐ ở trẻ nhỏ hiện nay chưa được biết cặn kẽ nhưng nó có thể liên quan đến gen và môi trường sống.

Đái tháo đường ở trẻ emẢNH MINH HỌA

ĐTĐ ở trẻ em ngày càng gia tăng cùng với tình trạng thừa cân, béo phì, do đó cần được phát hiện sớm để điều trị kịp thời nhằm hạn chế biến chứng và giảm tỉ lệ tử vong. Nghiên cứu của các chuyên gia cho thấy, ĐTĐ týp 1 tăng 21% ở trẻ em và ĐTĐ týp 2 tăng 30,5% ở trẻ trong độ tuổi từ 10 -19. Mắc ĐTĐ trước độ tuổi vị thành niên sẽ gây khó khăn trong việc điều trị, qua nghiên cứu của các chuyên gia về ĐTĐ ở trẻ em cho rằng có khoảng 80% trẻ mắc bệnh bị nhiễm ceton nhưng việc xác định tình trạng nhiễm ceton ở trẻ thường bị xem nhẹ vì phần lớn không nghĩ đến mà thường chỉ nghĩ đến các bệnh nhiễm trùng như: nhiễm trùng hô hấp, viêm dạ dày ruột, nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm miệng và số ít là viêm ruột thừa. Do đó, bệnh ĐTĐ sẽ gây hôn mê và có thể tử vong nếu không được phát hiện sớm và cấp cứu kịp thời.

Hầu hết trẻ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 ở nước ta cũng có mối liên hệ với chứng thừa cân, béo phì bởi lối sống thiếu cân bằng và chứng ăn uống thiếu điều độ gây nên

Những biểu hiện

Trẻ em mắc bệnh ĐTĐ có thể xuất hiện 1 hoặc 2 trong 4 dấu hiệu điển hình và trong một số trường hợp không có biểu hiện gì, hơn nữa vì ĐTĐ ít gặp ở trẻ em nên rất dễ nhầm lẫn với một số bệnh thông thường khác khi có một số biểu hiện tương tự. Do đó, cần phải lưu ý đến những biểu hiện này để đưa trẻ đi khám và điều trị kịp thời.

Những biểu hiện ở trẻ em cũng tương tự như người lớn và chúng xuất hiện trong một vài tuần như:

- Khát nước: trẻ uống nhiều nước hơn bình thường và không có cảm giác dịu cơn khát.

- Mệt mỏi: trẻ thường xuyên cảm thấy mệt mỏi kéo dài.

- Giảm cân: trẻ sút cân nhanh không rõ nguyên nhân.

- Thường xuyên đi tiểu: trẻ lớn sử dụng nhà vệ sinh thường xuyên; đối với trẻ nhỏ thường xuyên đái dầm; ở trẻ sơ sinh có thể thấy bỉm nặng hơn bình thường.

- Đau bụng.

- Đau đầu.

- Có hành vi cư xử khác thường.

ĐTĐ ở trẻ em nếu không kiểm soát tốt đường huyết sẽ rất khó khăn trong điều trị bởi vì không tầm soát được biến chứng.

Phòng và điều trịĐể phòng bệnh ĐTĐ ở trẻ em, các bậc cha mẹ cần xây dựng chế độ ăn uống cho trẻ hợp lý như: hạn chế đồ ngọt, thực phẩm chứa nhiều chất béo như: đồ ăn nhanh, đồ chiên xào, thịt mỡ, phủ tạng động vật, lòng đỏ trứng gà…, tăng cường rau xanh, chất xơ, hoa quả, chất đạm, tăng cường vận động, tham gia các hoạt động vui chơi, luyện tập thể dục thể thao như chạy bộ, đá bóng, bóng chuyền, bóng rổ…Đối với trẻ bị bệnh cần có một chế độ ăn uống, luyện tập nghiêm ngặt hơn, nếu không sẽ ảnh hưởng đáng kể đến tiến triển bệnh. Tuy nhiên, không nên quá kiêng ăn chỉ cần lựa chọn các thực phẩm thay thế dành cho người bệnh ĐTĐ và có chế độ dinh dưỡng hợp lý, đảm bảo nhu cầu phát triển của trẻ. Việc tăng cường vận động với trẻ bị bệnh đặc biệt có ý nghĩa trong việc giúp giảm lượng đường trong máu và giảm đề kháng insulin.Trẻ bị ĐTĐ cần phải theo dõi đường huyết thường xuyên và duy trì đường huyết ổn định, định kỳ mỗi 2 tháng một lần kiểm tra chỉ số HbA1C, xét nghiệm ceton nước tiểu để phát hiện sớm biến chứng nhiễm toan ceton. Ngoài ra, cần lưu ý đến một số biểu hiện biến chứng cấp để có biện pháp xử lý kịp thời như tình trạng hạ đường huyết với các biểu hiện như chóng mặt, choáng, mệt mỏi… để bổ sung đường ngay cho trẻ bằng việc cho ngậm kẹo, ăn bánh ngọt, uống nước đường… và biến chứng cấp nhiễm toan ceton với các biểu hiện: nôn, buồn nôn, đau bụng, giảm thân nhiệt… để cấp cứu kịp thời.ĐTĐ là bệnh mạn tính và cần điều trị trong thời gian dài. Nếu phòng và điều trị bệnh tốt, trẻ vẫn phát triển khỏe mạnh, ngăn ngừa biến chứng cấp xuất hiện và làm chậm lại quá trình xảy ra các biến chứng.

BS. HỒ VĂN CƯNG

Những sự thật về tình trạng đau đầu ở trẻ em

Một số nguyên nhân gây đau đầu ở trẻ gồm khóc nhiều, mất nước, bỏ bữa, bỏ ăn, căng thẳng hoặc căng cơ.

Đau đầu có thể là đau đầu nguyên phát hoặc thứ phát. Đau đầu thứ phát chỉ là triệu chứng của một số bệnh khác trong khi đau đầu nguyên phát là đau đầu không có bất cứ nguyên nhân y tế nào khác.

Đau nửa đầu là một loại đau đầu chính. Ngay cả những cơn nhức đầu xảy ra do căng thẳng cũng được coi là những loại đau đầu chính. Đau đầu do căng thẳng thường dẫn đến đau ở đầu và thái dương.

Ít nhất 10% trẻ bị đau nửa đầu. Loại đau đầu này gây nên cảm giác đau nặng và có thể gây rắc rối cho trẻ trong nhiều giờ. Thậm chí trẻ có thể bị nôn.

Đau đầu thứ phát có thể là kết quả của nhiễm trùng, lo âu, trầm cảm, vấn đề xoang hoặc đau nhẹ ở những khu vực như cổ hoặc đầu.

Những cơn đau đầu từng chuỗi có thể xuát hiện ở trẻ 10 tuổi trở lên. Những cơn đau đầu này thậm chí có thể kéo dài 7 ngày hoặc hơn. Đau có thể xuất hiện đằng sau mắt. Tiếp theo có thể là bị đỏ mắt và chảy nước mắt. Mắt và trán thậm chí có thể sưng lên.

Đau đầu thường xuyên cũng có thể do khối u. Vì vậy nếu trẻ than phiền về tình trạng đau đầu liên tục, tốt nhất hãy đưa trẻ đi khám để phát hiện bệnh kịp thời.

BS Thu Vân

(Theo Univadis/ Boldsky)

Dấu hiệu nhận biết sớm sốt xuất huyết

Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp nhất là trẻ em dưới 15 tuổi (chiếm 90%). Bệnh rất nguy hiểm vì tốc độ lan truyền nhanh, chưa có thuốc đặc trị và chưa có vắc-xin phòng bệnh. Do vậy, chúng ta cần phải phát hiện sớm để được điều trị kịp thời, thích hợp.

Dấu hiệu nhận biết sớm

Mặc dù khoa học đã có nhiều tiến bộ vượt bậc trong chẩn đoán, xử trí và phòng các bệnh nhiễm trùng nhưng hiện nay, SXHD vẫn còn là một vấn đề sức khỏe cộng đồng. Sự di dân kết hợp với tốc độ đô thị hóa quá nhanh cùng với sự thay đổi lối sống làm gia tăng nơi sinh sản, phát triển của muỗi truyền bệnh khiến tình hình dịch bệnh có xu hướng ngày càng gia tăng. SXHD có đặc trưng bởi sốt, xuất huyết và thoát huyết tương từ lòng mạch ra khoảng gian bào dẫn đến sốc do giảm thể tích tuần hoàn và rối loạn đông máu thứ phát sau sốc kéo dài. Do vậy, nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị đúng, kịp thời sẽ dẫn đến tử vong.

Những đám xuất huyết dưới da.

Khi dịch SXHD xảy ra tại địa phương, số người mắc bệnh thường rất lớn. Mặt khác, một người có thể bị mắc nhiều lần trong đời và những lần nhiễm sau nguy hiểm hơn những lần nhiễm trước. Do vậy, chúng ta cần phải phát hiện sớm để được điều trị kịp thời, thích hợp cũng như thực hiện các biện pháp phòng chống nhằm bảo vệ con em và gia đình chúng ta cũng như cộng đồng nơi chúng ta đang sinh sống.

Thông thường, bệnh SXHD có quá trình diễn biến trong 7 ngày với các triệu chứng như sốt cao, đau đầu, đau mỏi người, đau cơ, đau nhức hốc mắt, mệt mỏi, phát ban và có xuất huyết trên da, chảy máu cam, chảy máu chân răng. Triệu chứng cần chú ý và nó làm cho nhiều người bệnh chủ quan đó là khi người bệnh hết sốt, đây là thời kỳ rất nguy hiểm nếu chúng ta không phát hiện những dấu hiệu cảnh báo nặng.

Những dấu hiệu cảnh báo nặng

Người bệnh vật vã, lừ đừ, li bì, đau bụng vùng gan hoặc ấn đau vùng gan, gan to trên 2cm, nôn nhiều, xuất huyết niêm mạc, tiểu ít. Xét nghiệm máu: Hematocrit tăng cao, tiểu cầu giảm nhanh chóng. Khi người bệnh có những dấu hiệu cảnh báo trên, phải theo dõi sát mạch, huyết áp, số lượng nước tiểu, làm xét nghiệm hematocrit, tiểu cầu và có chỉ định truyền dịch kịp thời. Nếu các thầy thuốc không phát hiện và xử trí đúng, bệnh nhân sẽ diễn biến nặng với bệnh cảnh của SXHD nặng như sốc, xuất huyết nặng và suy đa tạng.

Sốc SXHD với biểu hiện của suy tuần hoàn cấp, thường xảy ra vào ngày thứ 3 - 7 của bệnh, biểu hiện bởi các triệu chứng như vật vã; bứt rứt hoặc li bì; lạnh đầu chi, da lạnh ẩm; mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt (hiệu số huyết áp tối đa và tối thiểu ≤ 20mmHg) hoặc tụt huyết áp hoặc không đo được huyết áp; tiểu ít. Sốc SXHD được chia ra 2 mức độ để điều trị bù dịch:

Sốc SXHD: Có dấu hiệu suy tuần hoàn, mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt hoặc tụt, kèm theo các triệu chứng như da lạnh, ẩm, bứt rứt hoặc vật vã li bì.

Sốc SXHD: Sốc nặng, mạch nhỏ khó bắt, huyết áp không đo được.

Những biểu hiện xuất huyết nặng: Chảy máu cam nặng, rong kinh nặng, xuất huyết trong cơ và phần mềm, xuất huyết đường tiêu hóa và nội tạng, thường kèm theo tình trạng sốc nặng, giảm tiểu cầu, thiếu oxy mô và toan chuyển hóa có thể dẫn đến suy đa phủ tạng và đông máu nội mạch nặng. Xuất huyết nặng cũng có thể xảy ra ở người bệnh dùng các thuốc kháng viêm như acetylsalicylic acid (aspirin), ibuprofen hoặc dùng corticoid, tiền sử loét dạ dày-tá tràng. Bên cạnh đó, bệnh nhân cũng có thể có suy tạng nặng như suy gan cấp, suy thận cấp, rối loạn tri giác, viêm cơ tim, suy tim hoặc suy chức năng các cơ quan khác. Trong quá trình diễn biến, bệnh có thể chuyển từ mức độ nhẹ sang mức độ nặng, vì vậy, khi thăm khám, cần phân độ lâm sàng để tiên lượng bệnh và có kế hoạch xử trí thích hợp.

Khi người bệnh có các dấu hiệu nghi ngờ SXH trên, gia đình cần đưa người bệnh đến cơ sở y tế để được theo dõi và điều trị kịp thời nhằm tránh những biến chứng ảnh hưởng đến tính mạng. Tuyệt đối không cho người bệnh sử dụng kháng sinh khi chưa có chỉ định của bác sĩ, không kiêng ăn và nhịn uống.

TS. Trịnh Thị Ngọc, BS. Nguyễn Văn Dũng (Khoa Truyền nhiễm Bệnh viện Bạch Mai)

Bệnh mạch máu não: Phòng ngừa từ các yếu tố nguy cơ

Từ khi còn là bào thai trong lòng mẹ đến khi ra đời và trưởng thành, hoạt động của não liên quan mật thiết đến sức khỏe nói chung. Khi mạch máu não bình thường, não được nuôi dưỡng tốt, cơ thể của chúng ta khỏe mạnh. Khi mạch máu não bị bệnh, hoạt động của các tế bào não bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau, cơ thể của chúng ta sẽ rơi vào trạng thái rối loạn do mất chỉ đạo từ não bộ.

Một trong những căn bệnh gây tử vong hàng đầu

Theo số liệu thống kê hiện nay, hàng năm, trên thế giới có từ 16 - 17 triệu người mắc tai biến mạch não và có tới 6 triệu trường hợp tử vong. Như vậy, bệnh mạch máu não là nguyên nhân phổ biến gây tử vong đứng thứ hai trên toàn cầu. Sau khi được cứu chữa qua giai đoạn cấp tính, khoảng 1/4 số bệnh nhân còn di chứng như liệt vận động, rối loạn ngôn ngữ, suy yếu trí tuệ và 1/3 mắc trầm cảm. Biểu hiện lâm sàng của tai biến mạch não là cơn đột quỵ não phần lớn do nhồi máu não (75 - 80% các trường hợp), còn lại là do chảy máu não (10 - 15% các trường hợp) và chảy máu dưới nhện (5%). Nói chung, cứ 2 giây đồng hồ lại xảy ra 1 trường hợp đột quỵ não trên thế giới và như vậy, theo GS. Raad Shakir - Chủ tịch Liên đoàn Thần kinh học Thế giới - có thể nói "đột quỵ não" là bệnh dịch của thế kỷ 21.

Bệnh mạch máu nãoBệnh lý chính của mạch máu não là huyết khối trên nền vữa xơ mạch máu.

Liên quan tới nhiều cơ chế bệnh sinh khác nhau

Bệnh mạch máu não liên quan tới nhiều cơ chế bệnh sinh khác nhau. Bệnh của động mạch lớn là nguyên nhân chủ yếu gây nhồi máu não ở các nước phát triển. Bệnh lý chính là huyết khối trên nền vữa xơ mạch máu, tuy nhiên, cũng có thể gặp các bệnh khác như bóc tách động mạch, viêm mạch và bệnh Moyamoya. Bệnh của động mạch nhỏ thường gây nhồi máu não dưới vỏ não được gọi là nhồi máu ổ khuyết. Các động mạch xuyên gắn với thương tổn này thường có biến đổi cấu trúc dạng thoái hóa mỡ - kính. Một số nguyên nhân ít gặp hơn là viêm động mạch, rối loạn đông máu, bệnh động mạch não tự thể trội kết hợp nhồi máu dưới vỏ và bệnh não chất trắng (CADASIL). Ngoài ra, còn phải kể đến đột quỵ não căn nguyên ấn hoặc nhồi máu não không rõ nguyên nhân.

Những yếu tố nguy cơ

Các yếu tố nguy cơ đối với bệnh mạch máu não là: tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, hút thuốc lá, sử dụng nhiều rượu, có bệnh tim, đái tháo đường, chế độ dinh dưỡng nghèo nàn, không hoạt động thể lực, tỉ lệ vòng bụng lớn, yếu tố tâm lý - xã hội. Ngoài ra, còn phải chú ý đến vấn đề ô nhiễm không khí và tuổi đời cao. Cần nhấn mạnh là chỉ riêng tăng huyết áp đã là yếu tố nguy cơ lớn nhất đối với đột quỵ não, có thể chiếm tới 50% các trường hợp và đồng thời cũng làm gia tăng nguy cơ chảy máu não.

Xử trí thế nào?

Trước hết, cần kịp thời phát hiện sớm các dấu hiệu như liệt mặt, liệt tay hoặc chân, hoặc liệt nhẹ nửa người, nói khó khăn, líu ríu, chóng mặt hoặc nhức đầu dữ dội xuất hiện đột ngột ở một người trước vẫn bình thường. Cần nhanh chóng vận chuyển bệnh nhân đến một cơ sở y tế gần nhất để được xử trí cấp cứu kịp thời. Không được để bệnh nhân tại nhà điều trị theo kinh nghiệm dân gian vì diễn biến của bệnh rất phức tạp, kể cả chuyên khoa sâu cũng không lường trước hết được mọi trường hợp.

Tại các bệnh viện chuyên khoa về bệnh mạch máu - thần kinh, phương pháp tiêu huyết khối đường tĩnh mạch đã được ứng dụng từ 15 năm nay trên thế giới. Việc ứng dụng kỹ thuật điều trị này sử dụng chất sinh plasmin mô tái tổ hợp làm tiêu huyết khối trong lâm sàng đã thúc đẩy xây dựng các Đơn vị/Đội/Trung tâm Đột quỵ não/Trung tâm bệnh mạch máu - thần kinh. Trong trường hợp khi phương pháp này không hiệu quả vì cục máu tắc quá lớn sẽ tiến hành xử lý bằng kỹ thuật nội mạch: sử dụng một ống thông để hút cục máu tụ ra một cách an toàn. Ở nước ta, phương pháp điều trị này đã và đang được ứng dụng tại một số đơn vị, khoa, trung tâm đột quỵ não quân và dân y.

Lời khuyên của thầy thuốcNgoài việc chăm sóc, cứu chữa bệnh nhân bị tai biến mạch não, việc phổ biến kiến thức đột quỵ não nói riêng, bệnh mạch máu não nói chung cần được hết sức quan tâm trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là công tác phòng bệnh. Để phòng ngừa bệnh mạch máu não, cần chú trọng điều trị tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh tim (rung nhĩ) cũng như tăng cường hoạt động thể lực, bỏ thuốc lá và ngừa béo phì. Mặt khác, cần định kỳ tới kiểm tra sức khỏe tại các cơ sở y tế hoặc phòng khám chuyên khoa.

GS.TS. Lê Đức Hinh

Đừng chủ quan với chảy máu tiêu hóa

Chảy máu tiêu hóa là hiện tượng máu chảy ra khỏi mạch máu, mà mạch máu ấy lại nằm trong ống tiêu hóa. Đây là một cấp cứu nội khoa và ngoại khoa. Nếu như chảy máu đường tiêu hóa trên với biểu hiện chủ yếu là nôn ra máu làm cho mọi người lưu tâm và chữa trị kịp thời thì với chảy máu đường tiêu hóa dưới đôi khi rất âm thầm khiến người bệnh dễ chủ quan. Chảy máu tiêu hóa dưới được định nghĩa là chảy máu đường tiêu hóa có nguồn gốc từ góc Treitz xuống tận hậu môn.

Chảy máu từ ruột non

Có nhiều nguyên nhân gây chảy máu ở ruột non, thông thường chảy máu ở ruột non là một trong các bệnh lý khó phát hiện nhất.

Viêm ruột xuất huyết: Thường xuất hiện khi bị nhiễm khuẩn các vi khuẩn gây bệnh bằng nội độc tố như E.Coli có nhóm huyết thanh 0 157-H7. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là tình trạng nhiễm khuẩn nặng, đau bụng, tiêu chảy, phân có máu tươi hoặc màu đỏ sẫm. Bệnh nhân có thể có tình trạng mất nước, nhiễm khuẩn, nhiễm độc và chảy máu. Điều trị chủ yếu là kháng sinh mạnh, bù nước và điện giải, nếu cần có thể phải truyền máu.

Bệnh Scholein Henoch: Nguyên nhân gây bệnh chưa rõ, hiện đang nghĩ nhiều đến nguyên nhân miễn dịch dị ứng. Bệnh thường xảy ra ở người trẻ tuổi. Bệnh có nhiều thể, với thể tổn thương tiêu hóa, biểu hiện chủ yếu là tình trạng nhiễm khuẩn với sốt, đau khớp, đau bụng, đại tiện phân máu thường là tươi hoặc đỏ bầm. Điều trị cần phối hợp corticoid.

Thương hàn: Ngoài những triệu chứng của bệnh cảnh thương hàn, biến chứng chảy máu thường xảy ra sau 1-2 tuần do biến chứng loét ruột, có thể kèm theo biến chứng thủng ruột. Bệnh nhân đau bụng, đại tiện phân có màu đỏ gạch hoặc đỏ sẫm. Ngoài điều trị chảy máu cần chú ý điều trị thương hàn.

Viêm ruột xuất huyết hoại tử: Đây là một cấp cứu nội - ngoại khoa. Bệnh cảnh thường là nặng nếu xảy ra ở trẻ em. Biểu hiện lâm sàng là tình trạng nhiễm khuẩn nhiễm độc nặng, sốt cao 40 - 41oC. Đau và trướng bụng, đại tiện phân đen mùi thối khắm. Điều trị bằng kháng sinh, truyền dịch, cân nhắc điều trị ngoại khoa khi có biến chứng.

Bệnh Crohn: Thường gặp là tổn thương vùng hồi manh tràng với đau bụng, đại tiện phân lỏng từng đợt kèm theo sốt, máu lắng tăng. Biến chứng chảy máu thường gặp vào giai đoạn 2 hoặc 3 của bệnh với tổn thương loét hoặc rò thủng vách ruột. Điều trị bằng kháng sinh, corticoid và thuốc ức chế miễn dịch.

Loét túi thừa Meckel: Đây là bệnh cảnh hiếm gặp, chẩn đoán lâm sàng rất khó. Bệnh có thể chảy máu từng đợt tự ngừng, có thể kèm theo sốt hoặc không, khám vùng hố chậu phải có thể đau.

Lồng ruột: Thường là lồng hồi - hồi tràng hoặc hồi - manh tràng, bệnh thường xảy ra ở những trẻ em bụ bẫm 8-9 tháng tuổi có yếu tố thúc đẩy như sau tiêu chảy. Khởi bệnh với đau bụng từng cơn sau đó có dấu hiệu tắc ruột và đại tiện phân nhầy máu. Điều trị chủ yếu bằng ngoại khoa để cắt bỏ khối lồng ruột và cầm máu.

Ngoài ra còn có thể gặp chảy máu ruột non từ các nguyên nhân hiếm gặp khác như: lao ruột, ung thư ruột non, hoặc chảy máu từ ruột non trong bệnh lý chảy máu toàn thể như trong sốt xuất huyết, bệnh bạch cầu cấp...

Chảy máu từ đại tràng

Loét túi thừa Meckel.

Là loại chảy máu thường gặp trong chảy máu tiêu hóa thấp. Do đặc điểm vị trí chảy máu thấp, nếu có tổn thương vùng trực tràng hậu môn sẽ kích thích đại tiện làm tăng số lần đi đại tiện, do đó lâm sàng thường có hội chứng lỵ hoặc giả lỵ và phân có màu đỏ tươi.

Lỵ trực trùng: Thường xảy ra ở trẻ em có yếu tố dịch tễ kèm theo. Lâm sàng có hội chứng nhiễm khuẩn có thể nhiễm độc với sốt cao, đau quặn bụng dữ dội, đại tiện nhiều lần (15-20 lần/ngày), kèm mót rặn và đau hậu môn. Phân lỏng, rất ít hoặc chỉ toàn máu, màu đỏ như máu cá hoặc nước rửa thịt. Điều trị bằng kháng sinh đặc hiệu, bù nước và điện giải, vitamin và các thuốc băng se niêm mạc.

Lỵ amíp: Bệnh cảnh lâm sàng thường nhẹ với sốt nhẹ, đau quặn bụng dọc khung đại tràng và vùng hạ vị; đại tiện phân nhầy máu, thường máu chỉ dính quanh phân có màu đỏ tươi, kèm mót rặn và đau hậu môn sau đại tiện. Điều trị bằng kháng sinh đặc hiệu, thường là nhóm metronidazol hoặc nhóm quinolon.

Ung thư đại tràng: Là bệnh lý thường gây chảy máu tiêu hóa thấp ở người già. Tùy theo vị trí ung thư đại tràng phải hay trái mà có những biểu hiện khác nhau. Ung thư đại tràng phải thường kèm theo đại tiện phân lỏng và máu đỏ sẫm. Ung thư đại tràng trái thường có dấu hiệu táo bón, đại tiện phân máu tươi. Còn ung thư trực tràng hậu môn thường kèm theo dấu hiệu kích thích đại tiện nhiều lần hoặc nhiều khi chảy máu hậu môn một cách tự nhiên. Chẩn đoán chủ yếu dựa vào chụp nhuộm đại tràng baryt hoặc nội soi sinh thiết đại tràng. Điều trị chủ yếu bằng phát hiện sớm để cắt bỏ khối u, cầm máu.

Viêm loét đại trực tràng chảy máu: Bệnh thường xảy ra ở phụ nữ trẻ, với biểu hiện từng đợt bao gồm sốt, đau khớp, đau quặn bụng dọc khung đại tràng và đại tiện ra máu, thường là máu tươi. Điều trị đáp ứng với corticoid và các thuốc ức chế miễn dịch khác.

Bệnh Crohn đại - trực tràng: Có thể kèm theo tổn thương Crohn ở các phần khác của ống tiêu hóa nhất là vùng hồi manh tràng. Bệnh có tính chất xảy ra từng đợt với sốt, máu lắng tăng, thương tổn đại tràng dài hoặc nhiều đoạn. Điều trị kết hợp nhóm kháng sinh, corticoid và ức chế miễn dịch.

Trĩ nội: Là do vỡ hoặc viêm nhiễm khuẩn búi trĩ, chủ yếu là máu tươi, có thể chảy thành tia hoặc giọt. Điều trị bằng các thuốc đặc hiệu trĩ hoặc chích xơ thắt hoặc phẫu thuật cắt bỏ búi trĩ.

Polyp đại tràng: Thường chảy máu từng đợt, do viêm loét nhiễm khuẩn các polyp. Chẩn đoán bằng chụp baryt đại tràng hoặc nội soi. Điều trị bằng đốt điện hoặc cắt bỏ qua nội soi.

Tóm lại, biểu hiện chảy máu đường tiêu hóa dưới rất đa dạng, có nhiều nguyên nhân, dễ làm người bệnh chủ quan. Vì vậy mỗi người cần có ý thức tự bảo vệ mình, nếu có biểu hiện bất thường nên tới khám sớm ở các cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

ThS.BS. Nguyễn Bạch Đằng